Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Sổ Tay Thượng Dân K’Tien (Danlambao)




Đồng bào nhà mình mà cứ chịu khó làm ăn, chăm đi nương đi rẫy, trồng lúa trồng bắp thì chắc không đến nỗi bị đói. Cứ cho bọn trẻ đi học đầy đủ (Nhà nước Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam không những không thu tiền học phí, tiền sách vở mà còn có hỗ trợ về sách vở, cử giáo viên cắm bản,…), chắc chắn sẽ có những kỹ sư, bác sĩ, thầy cô giáo,… có trình độ và tấm lòng quay trở về giúp dân bản. Đằng này, một bộ phận không nhỏ đồng bào chẳng chịu làm ăn, nước thiếu nhưng rượu thì vô kể, uống thâu đêm suốt sáng; bao nhiêu tiền, gạo, cây con giống Nhà nước hỗ trợ làm ăn, bà con nhà ta đem đi đổi lấy rượu uống hết. Được ai cho ăn học tử tế, có cơ hội đi ra ngoài thì đi luôn, có thấy ai quay về giúp dân bản đâu. Toàn là bác sĩ, giáo viên, kỹ sư người Kinh phải cùng ăn đói, mặc rét, chịu bao vất vả hi sinh  đồng bào, vì đồng bào với mong muốn đồng bào từng bước thoát khỏi nghèo khổ, làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Có thấy mấy người đó kêu ca đâu. Toàn mấy người ở đẩu ở đâu, về được một vài tiếng đồng hồ tham quan xem xét kiểu “ngồi tên lửa xem hoa” kêu ca, phàn nàn.
Mấy ông cán bộ nhà nước giúp đỡ hi sinh vì đồng bào ta như vậy là tốt lắm rồi. Họ mà không thật lòng thật bụng muốn giúp đỡ thì có núi tiền họ cũng chẳng bỏ gia đình, người thân,… để về với đồng bào đâu. Mấy ông mấy bà bên đó giỏi thì về mà làm xem có chịu đựng được bẩy ba hai mốt ngày không?  
Ở đời, lời cha ông truyền lại muôn thuở không sai: “nói dễ, làm khó”.
                                                                                                        Nguồnhttp://congdanvietnam2.blogspot.com/

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

CHỦ QUYỀN VIỆT NAM LÀ BẤT KHẢ XÂM PHẠM



CHỦ QUYỀN VIỆT NAM LÀ BẤT KHẢ XÂM PHẠM
                                       

Biển Đông hiện nay có tranh chấp giữa 5 nước và vùng lãnh thổ, trong đó nổi lên vấn đề bá quyền của Trung Quốc trong âm mưu độc chiếm Biển đông. Thiết nghĩ, những người Việt yêu nước phải nhận thức sâu sắc về chủ quyền quốc gia, đấu tranh chống lại miệng lưỡi xuyên tạc, bóp méo sự thật của bọn bành trướng phương Bắc. Tranh chấp diễn ra chủ yếu trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc.

 Ở Hoàng Sa hiện có trên 30 đảo, bãi đá, cồn san hô và bãi cạn, nằm trên vùng biển có diện tích khoảng 16.000 km2, cách đảo Lý Sơn của ta khoảng 120 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 140 hải lý. Diện tích toàn bộ hần đất nổi của quần đảo khoảng 10 km2. Ở Hoàng Sa, Trung Quốc chiếm đảo lớn nhất của ta là đảo Phú Lâm vào năm 1965, nơi hiện nay chúng đang tích cực xây dựng trụ sở ủy ban hành chính Tam Sa một cách trái phép.

  Quần đảo Trường Sa hiện có hơn 100 đảo, bãi đá, cồn san hô và bãi cạn, vùng biển có diện tích rộng khoảng 160.000 - 180.000 km2, cách Cam Ranh (Khánh Hòa) khoảng 243 hải lý, cách đảo Phú Quý (Bình Thuận) khoảng 203 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 585 hải lý. Diện tích toàn bộ phần nổi của quần đảo khoảng 10 km2.

Ở Trường Sa, Philippin hiện chiếm giữ 05 đảo và điểm đảo từ năm 1971 ; Malaixia chiếm giữ 7 điểm đảo ở Phía Nam. Trung Quốc lợi dụng tình hình khó khăn của Việt Nam, ngày 14/3/1988 chúng gây nên cuộc Hải chiến Trường Sa, cướp đi sinh mạng của 64 Liệt sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng và chiếm đóng 07 bãi đá ngầm thuộc Quần đảo Trường Sa, đến năm 2005 chúng đánh chiếm tiếp 02 điểm đảo thuộc Philippin quản lý. Như vậy, hiện nay Trung Quốc chiếm 9 điểm đảo. Còn Việt Nam giữ nguyên được chủ quyền biển đảo từ sau năm 1988 đến nay, không để bất cứ một thế lực bành trướng nào xâm phạm dù chỉ một tấc đất, một mét nước.

Về lịch sử chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, theo các nhà nghiên cứu cho đến thế kỷ XVII, 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các đảo vô chủ. Vào nửa đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn đã tổ chức “Đội Hoàng Sa” hàng năm ra Hoàng Sa thu lượm hải vật, đánh bắt hải sản, đo vẽ, trồng cây và dựng mốc trên đảo; đến nửa đầu thế kỷ XVIII, tổ chức thêm “Đội Bắc Hải” ra Trường Sa làm nhiệm vụ như “Đội Hoàng Sa”.

 Liên tục từ đó, Việt Nam đã có nhiều hoạt động cũng cố chủ quyền trên 02 quần đảo Hoàng sa, Trường sa như: Năm 1925, duy trì tuần tra trên đảo, đưa quân đội trú đóng; năm 1933-1938, thành lập đơn vị hành chính, đặt cột mốc, xây hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện; lên tiếng phản đối các nước yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa; năm 1951, khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam đối với 02 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội nghị San Francisco mà không gặp phải ý kiến phản đối nào; năm 1956, quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy và năm 1961, chuyển quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Thừa Thiên về tỉnh Quảng Nam quản lý; năm 1977 tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; năm 1982, thành lập huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; năm 1994, tham gia Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; năm 2003, ban hành Luật Biên giới quốc gia; tháng 4/2007, thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện đảo Trường Sa; hiện nay, huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa… Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt Nam đối với 02 quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa, khẳng định 02 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu hòa bình, quản lý liên tục, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế đối với 02 quần đảo Hoàng Sa và Trường sa. Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Biển Việt Nam vào ngày 21/6/2012.

Còn Trung Quốc thì sao?

Âm mưu bành trướng của Trung Quốc đã có từ hàng ngàn năm ngay từ khi nó ra đời. Theo thống kê trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, có đến 16 cuộc chiến thì đã có tới 14 cuộc chiến chống xâm lược phương Bắc. Và lịch sử cũng chứng minh rằng trong 14 cuộc chiến đó, thì Việt Nam đều giành chiến thắng vẻ vang, tạo nên nỗi khiếp sợ ngàn đời với chủ nghĩa bá quyền phương Bắc. Hẳn quốc dân đồng bào còn nhớ đến vẻ khiếp sợ của tên Thái thú Tô Định phải cạo râu tóc, giả gái để trốn khỏi nước Nam, khiếp sợ uy quyền của nữ tướng Hai Bà Trưng, còn nhớ Thoát Hoan phải chui vào ống đồng bắt quân lính khiêng để cút khỏi nước Việt,.. và đến cuộc chiến 1979 cũng vậy, Trung Quốc cũng phải ghánh chịu thất bại nặng nề và cút khỏi lãnh thổ Việt Nam trước khi quân chủ lực của Việt Nam từ chiến trường Campuchia kịp trở về.

Những tấm gương nhãn tiền như thế mà chúng không biết sợ là gì, lại tiếp tục có những hành động gây hấn trên Biển Đông hòng cướp chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo quy định của Công ước quốc tế và luật biển năm 1982.

Về tấm bản đồ 9 khúc (lưỡi bò) của Trung Quốc, trong lịch sử của Trung Quốc trước năm 1947 chưa hề có, các nghiên cứu của các học giả thông thái trên thế giới với những chứng minh lịch sử đã chứng minh điều đó là không thể chối cãi. Năm 1947, chính quyền của Tưởng Giới Thạch cho vẽ bản đồ của Trung Hoa gồm 11 khúc theo hình chữ U chứ không phải là 9 khúc như hiện nay, từ đó đến nay, Chính quyền Trung Quốc liên tục giáo dục người dân Trung Hoa là có lãnh thổ trên biển theo hình chữ U mà chúng quên mất rằng trước đó hàng ngàn năm Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo đó. Điểm cực nam của tấm bản đồ vô lý này cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 40 Hải lý (vi phạm cong ước quốc tế về Luật Biển năm 1982, quy định lãnh hải quốc gia ven biển là 200 hải lý). Về phía Nam, bản đồ hình chữ U này cách đường cơ cở của Malaixia mấy chục Hải lý, và nó nằm ngay trên đường cơ sở trong lãnh hải của Philippin.

Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 10 năm 2011. Khi làm việc với Hồ Cẩm Đào và Đảng Cộng Sản Trung Quốc, bàn đến tấm bản đồ hình lưỡi bò, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào nói: “Vừa rồi Việt Nam đã khai thác mấy trăm triệu tấn dầu trong đường 9 khúc của Trung Quốc, đề nghị Việt Nam dừng khai thác bởi vì đó là vùng biển của Trung Quốc

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đáp lời: “Việt Nam khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền 200 hải lý theo Công ước quốc tế về luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc, chúng tôi khẳng định điều đó. Nếu Trung Quốc không đồng ý thì Việt Nam và Trung Quốc cùng đưa ra Tòa án Quốc tế. Nếu Tòa án quốc tế phán xét như thế nào thì chúng tôi chấp nhận như thế ấy” .

Hồ Cẩm Đào nói: “Nếu nói như thế thì chúng ta cần gì ngồi đây để bàn”.

Trung Quốc không có bằng chứng cho sự phi lý của mình đối với tấm bản đồ hình lưỡi bò, nên rất sợ ra Tòa án quốc tế, chúng sợ dư luận quốc tế nên chỉ dám đàm phán song phương không dám đàm phán đa phương. Trần Ái Quốc tôi thiết nghĩ để có hình lưỡi bò thì phải có chủ thể của nó là con bò. Con bò lè lưỡi liếm thì mới ra hình lưỡi bò. Phần suy luận thế nào tùy độc giả phán đoán và kết luận. Là con bò mà cười thì làm gì có đủ hai hàm răng như con người được. Nên con bò bao giờ cũng ngu và đuối lý, hèn kém trước con người./.
Nguồn http://congdanvietnam2.blogspot.com/

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

BIỂN ĐÔNG TRONG CHIẾN LƯỢC BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG QUỐC


                              
Biển Đông có vị trí, vai trò quan trọng trong chiến lược đối với TQ. Biển Đông được xem là nơi khởi đầu của TQ trong tham vọng trở thành một cường quốc biển. Nếu không có Biển Đông, lối ra để trở thành cường quốc biển hay cái siêu cường gì đó chỉ là ảo tưởng. Giành được Biển Đông, TQ sẽ giành được thế chủ động và vươn ra Thái Bình Dương. Kiểm soát được Biển Đông, mở rộng biên giới biển TQ sẽ khẳng định được sức mạnh của mình, nâng cao tầm ảnh hưởng với các nước trong khu vực, phục vụ phát triển kinh tế nội địa, tạo đối trọng với Mỹ và Nhật Bản, Ấn Độ... phát triển đất nước trở thành cường quốc số một thế giới.
TQ coi Biển Đông là một trong những “lợi ích cốt lõi” của mình như vấn đề Tây Tạng, Đài Loan và Tân Cương. Điều đó có nghĩa Biển Đông là một phần chủ quyền của TQ và TQ sẽ áp dụng các biện pháp quân sự để bảo vệ “lợi ích cốt lõi” của mình. Âm mưu ý đồ “độc chiếm Biển Đông” của TQ ngày càng thể hiện rõ, đặc biệt là sự kiện năm 2009, TQ đưa ra yêu sách đòi chủ quyền theo “đường lưỡi bò” (hay còn gọi là “đường 9 đoạn” hoặc “đường chữ U”). “Đường lưỡi bò” do chính quyền quốc dân Đảng vẽ năm 1974, về phạm vi hoạt động đánh bắt hải sản của ngư dân TQ, nhưng sau đó phía TQ viện cớ “đường lưỡi bò” để thực thi yêu sách đòi chủ quyền. “Đường lưỡi bò” không có căn cứ pháp lý, hoàn toàn áp đặt.
           Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những việc trên của phía Trung Quốc nhằm bành trướng và độc chiếm biển đông đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam và các nước trong khu vực, trái với công ước biển. Việt nam yêu cầu TQ cần tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc, tôn trọng các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thực hiện đầy đủ các cam kết trong DOC, tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC),  với Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản giải quyết các vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, việc không tuân thủ Tuyên bố cấp cao giữa ASEAN - Trung Quốc kỷ niệm 10 năm DOC và vi phạm DOC, gây căng thẳng và làm phức tạp tình hình ở Biển Đông”.
Trên biển, hiện nay TQ tăng cường sức mạnh Hải quân, dân sự hóa hoạt động tuần tra, kiểm soát và sử dụng lực lượng này tấn công, cản phá hoạt động kinh tế của ta trên Biển Đông, cố ý tạo khu vực tranh chấp mới trong cùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gia tăng áp lực ép ta chấp nhận “gác tranh chấp, cùng khai thác” theo các điều kiện của TQ. Điều này thể hiện dã tâm trong chiến lược bành trướng của TQ đối với biển đông do vậy Trước tham vọng kiểm sát Biển Đông, hiện thực hóa “đường lưỡi bò”, Trung Quốc đã và sẽ tiếp tục hành xử bất chấp Luật pháp quốc tế, do vậy Việt Nam phải có hành động kiên quyết: Một mặt, chúng ta kiên trì các giải pháp hòa bình, phù hợp với quy định của Luật pháp Quốc tế, đặc biệt là công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982, nhưng kiên quyết không nhân nhượng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nước ta đã được công ước quốc tế thừa nhận. Mặt khác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó chủ động trong mọi tình huống bất ngờ về xung dột vũ trang có thể xảy ra.


Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

Kính gửi giáo sư toán học Nguyễn Xuân Phú




                                                 
Kính thưa giáo sư toán học Nguyễn Xuân Phú bản thân tôi thiết nghĩ ông là người được ăn học đàng hoàng, có tầm nhìn, có lẽ vì ông nhìn quá xa nên có lẽ ông khác với những nhà toán học khác say mê nghiên cứu, phục vụ khoa học thì giáo sư Phú đã bước chân vào con đường chính trị bằng một bước ngoạt khi cho ra đời cái gọi là kiến nghị 72, mà thực chất đây là cái mà giáo sư phú đã đánh tráo sự thật, ông là một nhà toán học nhưng khi đưa ra sự việc mang tính chất công bằng như 1 + 1 = 2 thì ông Phú đã dung ma trận đánh tráo nó. Kính thưa ông Phú, tôi là 1 công dân bình thường lúc đầu đọc cái gọi là kiến nghị 72 của ông, tôi thiết nghĩ ông là một công dân tốt, tưởng ông có cao kiến gì đóng góp cho tổ quốc, nhưng than ôi khi tôi tìm hiểu sâu hơn về những đóng góp của ông cái kiến nghị của ông tôi lại thấy đúng là ông thật là một nhà toán học tài ba ông  Phú ạ! Thiết nghĩ là một người quá tôn trọng ông, tin ông nên giờ tôi lại phả chửi ông ông phú ạ! ông nghĩ rằng ông dùng phép thuật toán học hay dùng danh tiếng là một giáo sư được ăn học ở trời Tây, để làm cái trái với sự thật ư ông Phú. Người Việt Nam bây giờ quá ngại với cái kiểu dùng uy tín để đứng ra lừa đảo rồi ông Phú ạ! Tôi thiết nghĩ ông là người Việt Nam, ăn học ở nước ngoài nhưng ông chưa đóng góp được gì cho tổ quốc mà ông lại dùng cái thứ phép thuật ấy để đánh lừa lòng người, phải chăng Phương Tây đã tạo ông thành một cỗ máy, hay là biến ông thành 1 kẻ tay sai. Ông nghĩ rằng kiến nghị 72 mà ông vẽ ra sẽ được mọi người ủng hộ ư! Sai hết rồi ông Phú ơi ông hãy quay đầu lại đi, ông hãy sống thật với lương tâm mình đi ông Phú ạ! Ở đời này sợ nhất mất độc lập tự do một đất nước đã thế, và một con người cũng vậy ông phú ạ! Làm tay sai chỉ có miếng ăn khi còn giá trị sử dụng, à quên tôi nói điều này hơi múa rìu qua mắt thợ vì ông ăn học ở Trời Tây ông rõ hơn tôi rằng tư bản nó chỉ sử dụng kẻ có ích, còn khi ông không có ích thì xin nó bãi cứt để ăn cũng không cho đâu ông Phú nhé! À đấy là 1 ví dụ sinh động, còn người Việt Nam sống ở chế độ này thấy tốt đẹp lắm rồi, ông cứ muốn đa đảng làm gì, suốt ngày đấu đá nhau mệt lắm ông ạ! Tôi khuyên ông đừng tham vọng thành chủ tịch đảng ảo vọng nào của ông nhé! Không tới 1 ngày cứt không có mà ăn đâu! Khuyên ông hãy trở về với nhà toán học của ông đi, đừng mải mê vẽ số 72 làm gì ông phú ạ! Theo suy tâm 72 là mãi thất đấy! Trên đây là vài lời tâm sự của tôi giành tới ông! Chú ông lúc nào cũng có cơm ăn! Đừng để hậu quả xấu xẩy ra với mình ông nhé! Thân chào tạm biệt!

Nguồn blog http://congdanvietnam2.blogspot.com/

SỰ THẬT VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM




Thời gian qua, các thế lực thù địch cho rằng“ở Việt Nam không có tự do tôn giáo”, Đảng Cộng sản “vô thần” chủ trương xóa bỏ tôn giáo. Gần đây, khi một số đối tượng lợi dụng tự do tôn giáo để hoạt động chống phá chính quyền, vi phạm pháp luật, bị cơ quan chức năng Việt Nam xử lý theo quy định của pháp luật thì họ tìm cách xuyên tạc, vu cáo Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, “bóp nghẹt tôn giáo”, “bắt giam các nhà tu hành vì lý do tôn giáo”...
Đây là những luận điệu nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở Việt Nam, các thế lực thù địch trong và ngoài nước mưu toan phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ các tôn giáo, chia rẽ người có đạo và người không có đạo. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Điều này được minh chứng ngay trong chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và trong thực tế.
Trong điều 70 Hiến pháp năm 1992 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Tiếp đó trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004, Nghị định số 22/NĐ-CP, ngày 11-5-2005 của Chính phủ, gần đây là Nghị định 92/2012/NĐ-CP, do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 8-11-2012, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2013 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác đã quán triệt và thể chế hóa đầy đủ những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta  về tín ngưỡng, tôn giáo trong giai đoạn hiện nay. Các quy định pháp lý đó không những phù hợp với tinh thần và nội dung tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà còn đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, củng cố niềm tin, tạo động lực để đồng bào các tôn giáo “đồng hành cùng dân tộc”, “sống tốt đời, đẹp đạo”, góp phần quan trọng vào củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tế cho thấy, năm 2006 cả nước mới có 6 tôn giáo và 16 tổ chức tôn giáo được công nhận và đăng ký hoạt động, thì đến nay đã có 12 tôn giáo và 37 tổ chức tôn giáo với trên 20 triệu tín đồ, chiếm 25% dân số cả nước. Điều đó chứng tỏ sự phát triển của các tôn giáo ở Việt Nam là tốt đẹp và luận điệu vu cáo Việt Nam “đàn áp tôn giáo” là hoàn toàn bịa đặt. Hiện nay, cả nước có gần 100.000 chức sắc tôn giáo, trên 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều công trình được trùng tu, xây mới. Tính riêng hai năm 2010 và 2011 đã có gần 500 công trình tôn giáo được xây mới, hơn 600 cơ sở thờ tự được nâng cấp, sửa chữa khang trang, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của một bộ phận nhân dân. Hoạt động báo chí, in ấn, xuất bản trong lĩnh vực tôn giáo được đẩy mạnh, riêng Nhà xuất bản Tôn giáo đến nay đã xuất bản hơn 4.000 đầu sách với số lượng hàng chục triệu bản. Các cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo với đủ các cấp học như: Học viện Phật giáo, Chủng viện Thiên chúa giáo và các trường cao đẳng, trung cấp của các tôn giáo đã và đang hoạt động với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương.. [1]Sự thật về tự do tôn giáo ở Việt Nam còn được thể hiện ở nhiều sự kiện, hoạt động tôn giáo sôi động góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những bằng chứng này, chẳng phải đã và đang thể hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ở Việt Nam sao? Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân chính là cơ sở để đoàn kết các lực lượng quần chúng có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng. Qua đó để tiến hành vận động quần chúng các tôn giáo và hàng ngũ giáo sĩ, chức sắc tôn giáo tham gia vào các hoạt động tiến bộ, yêu nước do Đảng lãnh đạo, tiến hành các hoạt hoạt động tuyên truyền, giáo dục, văn hóa, khoa học kỹ thuật, thế giới quan duy vật khoa học quần chúng… Đồng thời đây là cơ sở để đấu tranh chống lại các luận điệu vu cáo, các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Nhà nước XHCN./.


[1] Đỗ Phú Thọ: Không thể xuyên tạc quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam, www.qdnd.vn , QĐND,14/102012.

Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam

Ngày 29 tháng 6 năm 2013


Các con hãy nhớ, bản đồ cổ này xác định Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam
Dạ chúng con nhớ rồi
Các bạn ơi, kia là Hoàng Sa và Trường Sa của nước ta đó!
Ui da! Đẹp quá ta!


Mọi hoạt động trên Hoàng Sa, Trường Sa không được phép của Việt Nam đều vi phạm luật pháp quốc tế.


Việt Nam tôi yêu!

Chúng ta có chính nghĩa, chúng ta có căn cứ, chúng ta có luật pháp bảo vệ!
Nam Hoàng

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

Hãy sống đẹp khi ta còn sống




                                                                               X.O
Trong cuộc sống văn minh hiện nay, chúng ta có thể nhìn thấy rất nhiều cách sống khác nhau. Có người thì chọn cách sống ẩn dật. Có người thì chọn cách sống xa hoa, tiêu xài lãng phí vô tội vạ. Cũng có người chọn cách sống “Làm người của công chúng”…. Chúng ta có rất nhiều con đường để lựa chọn cách sống riêng của mình. Như thế, việc lựa chọn giữa “sống đẹp” và “sống chÕt mÆc bay”, “sèng h«m nay kh«ng cÇn biÕt ®Õn ngµy mai”, “sèng kh«ng lÝ t­ëng, kh«ng môc ®Ých”, “sèng lµ ph¶i h­ëng thô”… sẽ ảnh hưởng tÝch cùc hoÆc tiªu cùc đến cuộc đời của chúng ta.
Trước hết, “sống đẹp” là như thế nào? Tuỳ trường hợp và hoàn cảnh, cũng như cuộc sống xã hội, chúng ta có thể hiểu hai từ ngữ này theo nhiều phương diện. Có người cho rằng “Sống đẹp” là vẻ bề ngoài sang trọng, quý phái, cũng có thể là ăn mặc theo thời đại. Có những người lại nghĩ đó là cách sống ẩn dật, tu hành. Theo quan điểm riêng của tôi “Sống đẹp” có lẽ đơn giản là sống tốt, giúp đời, giúp người bằng chính trái tim chân thành, vốn dĩ được sinh ra để yêu thương và cảm nhận tình yêu thương.
Nhưng phải chăng, “sống đẹp” chỉ mang ý nghĩa ngắn gọn của khái niệm sống trong phạm trù xã hội? Vâng, “Sống đẹp” còn là việc tự phấn đấu để rèn luyện bản thân và hướng con người tới Chân – Thiện – Mỹ. Việc ra sức lao động, ra sức học tập, ra sức chiến đấu… để đạt được hiệu quả to lớn cũng được cho là “sống đẹp”. Thời phong kiến xưa cũ, “chí làm trai” của các “trang nam nhi” là vì lợi ích chung của toàn xã hội, của quốc gia, không màng tới danh lợi tiền tài, sẵn sàng hi sinh cho quốc gia, sẵn sàng đánh đổi cả bản thân cho hoà bình dân tộc. Đó là một quan niệm “sống đẹp” rất hay. Tiêu biểu cho thời kỳ này là những bậc danh thần, những vị đạt tướng quân lỗi lạc: Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Lê Lợi, …
Như đã nói ở trên, quan niệm “sống đẹp” được rèn luyện và thay đổi theo thời gian. Trong hai cuộc chiến tranh ác liệt, giải phóng dân tộc dưới ách đô hộ của Pháp – Mỹ. Ta thấy hình ảnh oai hùng của dân tộc Việt Nam với sự lãnh đạo của vị cha già đáng kính Hồ Chí Minh. Người đã định hướng cho cuộc đời mình chính là tham gia vào công cuộc giải phóng dân tộc. Người đã kiên trì bôn ba tứ xứ, học hỏi cái hay, cái đẹp của xứ người để rèn luyện kiến thức bản thân rồi truyền đạt lại cho dân tộc. Đó là ngọn đuốc chói loà, ngọn hải đăng không bao giờ tắt dẫn đường cho chúng ta đạt tới sự hoàn hảo của “sống đẹp”. Đång hành cùng Bác Hồ chính là những tấm gương kiên trì trong chiến đấu, những phát minh và nỗ lực không ngừng, cũng như những hi sinh chiến đấu tới giọt máu cuối cùng của nhân dân. Tiêu biểu cho giai đoạn này chính là Trần Đại Nghĩa; Phạm Tiến Duật; Chính Hữu;…
Đó là những quan điểm về “sống đẹp” đáng để chúng ta noi theo. Thế nhưng ta đang ở trong thời kỳ hoà bình với sự phát triển đi lên của xã hội, nghĩa vụ của chúng ta bây giờ chính là xây dựng đất nước phát triển vững mạnh, mà trước hết là phát huy tối đa năng lực trong học tập và lao động. Có những con người đã thành công trên con đường “sống đẹp” này. Giáo sư Ngô Bảo Châu – người đã kiên trì chứng minh bổ đề Langlands suốt 15 năm trường. Đó là một thành quả to lớn cho sự phát triển nền Toán học Việt Nam trên trường Quốc tế - lµ mét minh chøng rÊt râ nÐt.
Trên là những tấm gương sáng ngời về “sống đẹp” trong ba thời kì quan trọng trong sự phát triển đi lên của Việt Nam. Thế nhưng cũng có những thành phần đã và đang làm ô uế danh dự xã hội này bằng những hành vi bạo tàn, th
ñ ®o¹n tinh vi không thể tưởng tượng được, Họ có nghĩ rằng họ đang làm bộ mặt của chính họ, gia đình họ và toàn thể dân tộc nhục nhã trên cộng đồng quốc tế khi thông tin đang được truyền đi với “tốc độ ánh sáng” ? Sự kiện Lê Văn Luyện gần đây là một nỗi đau lớn, một vết nhơ không thể xoá nhoà hay nh÷ng kÎ ¨n c¬m ViÖt nh­ng l¹i suy nghÜ vµ lµm viÖc cho T©y, nh÷ng kÎ b»ng c¸ch nµy c¸ch kia ®· phï phÐp ®Ó biÕn cña c«ng thµnh cña t­… Là một công dân Việt Nam, tôi cảm thấy những việc làm vô đạo đức, ®i ng­îc l¹i víi truyÒn thèng yªu n­íc th­¬ng nßi, vi phạm nghiêm trọng quyền sống và được sống của con người, là một điều không thể chÊp nhËn được. Nó làm cho truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc từ xưa đến nay mất đi một cách trắng trợn.
Một nhà văn đã từng nói :” Không có gì chúng ta không thể làm khi chúng ta thật sự cố gắng”. Chính vì thế, điều mọi người nên làm bây giờ là hãy góp phần, dù là nhỏ nhoi để giúp cuộc sống này đẹp hơn. Và hãy cố gắng nỗ lực hoàn thiện bản thân mình hằng ngày bởi vì “XÊu hæ lớn nhất con người có thể làm, chính là không cố gắng”
Nói tóm lại, “sống đẹp” qua các thời kì tuy có khác nhau nhưng đều quy về cái tốt đẹp cho xã hội. Là một công dân Việt Nam, nằm trong đại gia đình thế giới, chúng ta hãy làm cho cuộc sống này tốt đẹp hơn. Hãy ước mơ và dám ước mơ. Hãy tin ch¾c rng điều chúng ta đang làm sẽ trở thành hiện thực./.

TƯ TƯỞNG “DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN” CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG



Xuân An
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã sản sinh nhiều tên tuổi vĩ đại, vừa là anh hùng dân tộc vừa là nhà tư tưởng lớn. Trong đó, Hồ Chí Minh ghi dấu ấn lịch sử đậm nét nhất, mang tầm vóc thời đại, được loài người tiến bộ ca ngợi và thừa nhận. Dù không để lại các công trình nghiên cứu chuyên khảo về các lĩnh vực nhưng qua những bài viết, bài nói Người để lại đã chứa đựng những tư tưởng lớn mà giá trị của nó vượt thời đại. Tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là một ví dụ.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về “dĩ bất biến, ứng vạn biến” mang tính triết lý sâu sắc, đó là phải lấy cái bất biến - cái không thay đổi, để ứng phó với cái vạn biến – cái thay đổi nhưng không được rời xa cái bất biến. Hồ Chí Minh tiếp thu phép biện chứng macxit, nhưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của tư duy biện chứng phương Đông. Cái bất biến ở đây được xác định là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên để đạt được cái bất biến là cả một quá trình đấu tranh trong muôn vàn cái vạn biến, đòi hỏi cần có sách lược đúng đắn và hiệu quả trong mỗi bước đi, mỗi giai đoạn để chuyển dần từ những thay đổi mang tính tiến hóa đến những thay đổi mang tính cách mạng. Người thường bắt đầu từ cái bất biến rồi mới đi tới cái vạn biến.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh yếu tố quan trọng nhất làm nên sức mạnh dân tộc là truyền thống yêu nước, nồng nàm, khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do và ý chí quật cường chống ngoại xâm của nhân dân ta. Từ khi có Đảng, có Bác Hồ, lòng yêu nước lại càng được nhân lên gấp bội lần, tạo nên ý chí quật cường, không khuất phục trước bất kỳ thực dân, đế quốc, kẻ thù nào dám xâm phạm bờ cõi nước ta. Nhằm mục tiêu “đưa nước nhà đến tự do, độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn”, chúng ta đã sử dụng nhiều sách lược ngoại giao phù hợp như “hòa để tiễn”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “đặt lợi ích dân tộc lên trên hết” một cách mềm dẻo, linh hoạt và thu được những kết quả thắng lợi vẻ vang.
Trong thời đại ngày nay, khi mà hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ… gia tăng, khu vực châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động nhưng lại tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, nhất là tranh giành, ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển đảo, tài nguyên thì hơn lúc nào hết, chúng ta cần tỉnh táo, thấm nhuần tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và kiên định phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Vấn đề biển Đông thời gian qua luôn là đề tài nóng bỏng, phức tạp, Trung Quốc thường xuyên đưa ra các hành động gây hấn, thông tin về việc diễn tập quân sự tại Biển Đông, bổ sung tàu lớn cho lực lượng Hải Giám, Ngư chính hoạt động tại Biển Đông, đưa ra những lời vu cáo, xuyên tạc. Trước một quốc gia có tiềm lực mạnh nhưng hay thích bắt nạt các nước khác như Trung Quốc, chúng ta cần phải đưa ra phương án nào để giải quyết. Thực tế đã chứng minh, sử dụng nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay.
Cái bất biến là lợi ích quốc gia, dân tộc – trong đó độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là cốt yếu.
Cái vạn biến là linh hoạt, khôn khéo trong đấu tranh. Chúng ta phải đấu tranh bằng nhiều cách: con đường ngoại giao và tận dụng mọi cái có thể tận dụng được.
Tuyệt đối không để không kẻ nào được phép bán rẻ chủ quyền quốc gia, và tuyệt đối không được để “ứng vạn biến” thay thế cho những điều thuộc về “dĩ bất biến”.
Trước các động thái của Trung Quốc, ta phải phân biệt rõ ràng và tùy theo tình hình mà đưa ra các phương án giải quyết. Xử lý vận đề tranh chấp lãnh thổ phải theo hướng phấn đấu cho hòa bình và ổn định, đối với các tranh chấp phải kiên trì biện pháp hòa bình, dựa vào luật pháp quốc tế để đối thoại, tìm ra giải pháp. Luật pháp quốc tế là thành quả trí tuệ của xã hội văn minh hiện đại, mà tất cả các nước trên thế giới đều phải tôn trọng và tuân thủ một cách có trách nhiệm. Khi luật pháp quốc tế được thực thi một cách nghiêm túc, nguy cơ xung đột sẽ giảm, nền hòa bình vững chắc sẽ được bảo đảm hơn.
Nếu việc tập trận diễn ra trong phạm vi lãnh hải của họ và không ảnh hưởng gì đến các nước khác thì đó là quyền của họ. Theo Công ước Quốc tế về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) thì Trung Quốc thực hiện công tác quản lý nhà nước trên biển bằng các tàu hải giám, ngư chính trong khu vực cho phép là bình thường. Nhưng nếu tàu của Trung Quốc lao vào cắt cáp tàu thăm dò dầu khí trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thì chúng ta kiên quyết phản đối. Phản đối cũng phải tùy tình hình mà theo nhiều hình thức, cấp độ khác nhau: thứ nhất, triệu đại sứ, gửi công hàm phản đối. Nếu nghiêm trọng hơn, ngoại trưởng, thủ tướng, chủ tịch nước có thể gửi công hàm phản đối Trung Quốc. Trong đó, chúng ta phải ghi rõ sự việc vi phạm nghiêm trọng đó xảy ra tại khu vực nào, tọa độ nào, tham chiếu luật pháp quốc tế là vi phạm điểm nào. Từ đó phải công bố rộng rãi cho nhân dân cả nước và trên toàn thế giới được biết./.

ĐÀI “CHÂU Á TỰ DO” TRONG CHIẾN LƯỢC DIỄN BIẾN HÒA BÌNH CỦA MỸ



                                                                                                Mr Thái
          Đài phát thanh, một phương tiện thông tin đại chúng tưởng chừng đã “lùi bước”         để nhường đại vị “thống soái” cho vô tuyến truyền hình và hệ thống Internet. Nhưng sau những bước đi loạng choạng nó đang được các kỹ thuật gia hiện đại hóa và vẫn được các chính trị gia phương tây lợi dụng vào các hoạt động tuyên truyền trong chiến lược diễn biến hòa bình.
          Với lợi thế có thể phủ sóng khắp hành tinh, giá thành máy thu rẻ, đài phát thanh đã được bộ máy chiến tranh tâm lý của Mỹ triệt để lợi dụng làm “chiếc trùy phá thành” và có nhiệm vụ “châm lửa trong xã hội cộng sản” (Reagan – Tổng thống Mỹ), Tổng thống Kennơđi cũng đã coi việc tăng cường phát thanh là con đường cụ thể để diễn biến hòa bình với các nước XHCN.
          Ngày 29 tháng 9 năm 1996, Đài “Châu Á tự do” đã phát sóng chương trình khai trương của mình bằng tiếng Trung Quốc. Việc cho ra đời Đài “Châu Á tự do” là một trong những bước đi trong “chiến lược mở rộng ở Châu Á - Thái Bình Dương” của Mỹ. Nó lãnh trách nhiệm tiên phong trong chiến lược chiếm lĩnh mặt trận địa tư tưởng mà chủ yếu là hướng mũi nhọn công kích vào các nước XHCN ở Châu Á: Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên… Cốt lõi của nó là chống cộng, trắng trợn can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, kích động những phần tử chống đối lại chính phủ. Phát ngôn viên bộ ngoại giao Mỹ nói: “Chúng tôi cho rằng nhân dân cần phải được tiếp cận những thông tin về kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng của phương Tây và đó chính là mục đích của Đài Châu Á tự do…”.
          Những con biến sắc.
          Mỹ đã sử dụng đài phát thanh để tuyên truyền chống các nước XHCN từ những năm 50 của thế kỷ XX. Đứng đầu là Đài “Tiếng nói Hoa Kỳ” (VOA) được thành lập năm 1942; đài “Châu Âu tự do” và Đài “Tự do” được thành lập vào những năm 50; Đài “Hôxêmácti” được thành lập năm 1985 phát tiếng Tây Ban Nha, tiến hành tuyên truyền thù địch chống Cu Ba suốt 24/24h. Các đài đều là những trung tâm phá hoại tư tưởng đặt dưới sự bảo trợ của CIA.
          Đài “Châu Á tự do” được giới chính trị Mỹ coi là một công cụ nhằm gây mất ổn định ở các nước XHCN. Với giọng điệu truyên truyền là một “trường đại học trên làn sóng” thì bản chất là “Cú đội lốt Công”. Vì cái gốc của vấn đề: chủ nhân đích thực của nó là ai? CIA chi tiền cho hoạt động, thì dù có thay đổi giọng điệu thế nào đi chăng nữa, dù có nấp dưới danh nghĩa công ty phát thanh tư nhân nào đi nữa thì nó vẫn là một trung tâm tình báo, có nhiệm vụ như Đài “Châu Âu tự do” và Đài “Tự do” mà thôi.
Trong dàn “hợp xướng” mới này, các đài phát thanh của Mỹ tung ra các luận điệu tâm lý chiến nhằm mục đích gì? Ai cũng rõ. Họ định đem thứ tư tưởng Mỹ, nhân quyền, dân chủ và tự do kiểu Mỹ gieo rắc áp đặt khắp nơi trên thế giới.
Đừng ảo tưởng.
Khi Đài “Châu Á tự do” ra đời, Mỹ tìm nơi “thường trú” cho nó, nhưng bị các nước cự tuyệt thẳng thừng. Chính phủ Thái lan đã nhiều lần bác bỏ đề nghị của Mỹ và khẳng định không cho phép hoạt động dịch vụ phát thanh can thiệp vào công việc nộ bộ của nước thứ 3 hoặc làm phương hại đến quan hệ ngoại giao của Thái Lan. Chính phủ Trung Quốc coi đó là hành động can thiệp trắng trợn của Mỹ vào nội bộ các nước khác, là “vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn và nguyên tắc quốc tế”. Bộ Ngoại giao Triều Tiên chỉ rõ nước Mỹ quyết định thành lập Đài “Châu Á tự do” là hành vi can thiệp thù địch vào tình hình chính trị của Triều Tiên và các quốc gia Châu Á mà ý đồ thực hiện của họ là tuyên truyền dân chủ và tư tưởng độc địa của giai cấp tư sản kiểu Mỹ vào Triều Tiên và các quốc gia Châu Á.
Đối với Việt Nam, Đài “Châu Á tự do” rõ ràng là một công cụ chiến tranh tâm lý. Trong cuộc chiến tranh sai lầm của Mỹ ở Việt Nam, Mỹ đã từng lập ra các Đài “Tự do”, “Mẹ Việt Nam”, “Tiếng nói Nam Bộ”, “Gươm thiêng ái quốc”, “Vận mệnh tổ quốc” dưới sự điều khiển trực tiếp của cục Tâm lý chiến và Ban tham vấn tòa đại sứ Mỹ. Chúng tổ chức những chiến dịch tuyên truyền thâm độc hòng lung lạc niềm tin của nhân dân ta với Đảng, đối với cách mạng, nhưng những âm mưu ấy đều thất bại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đưa đất nước đến bến bờ của tự do độc lập và đang cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước trở thành một nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Mỹ lập Đài “Châu Á tự do” là đi ngược lại xu thế chung của thời đại, ảo tưởng nhóm lại cuộc chiến tranh lạnh. Việc cho ra đời Đài “Châu Á tự do” trong giới chính trị Mỹ đã có nhiều bất đồng, thì sự hoạt động của nó sau này sẽ nảy sinh nhiều mâu thuẫn gay gắt hơn, làm phân tâm nước Mỹ.

Cần cảnh giác hơn với những động thái kinh tế của Trung Quốc đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay



Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là chủ đề quan trọng trong hơn 4000 năm lịch sử của Việt Nam, cho dù thời đại nào đều mang tính thời sự. Là hai nước láng giềng, chung biên giới trên bộ và trên biển, lại có quá trình gắn bó tương tác về văn hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại giữa hai nước, đã làm cho Quan hệ Việt Trung trở nên vô cùng phức tạp và nhạy cảm.
Chiến lược quốc tế hóa đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đã được khởi động từ những năm đầu của thập kỷ 90. Chiến lược này được chia làm 3 giai đoạn cụ thể: láng giềng hóa, khu vực hóa và quốc tế hóa và Trung Quốc đang đi những bước quan trọng để bước vào giai đoạn cuối cùng với mục tiêu dài hạn là sẽ biến đồng nhân dân tệ của Trung Quốc trở thành một đồng tiền dự trữ của thế giới và Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia lãnh đạo thế giới.
Việt Nam nằm trong chiến lược láng giềng hóa đồng NDT của Trung Quốc, bởi vậy, dù muốn hay không chúng ta sẽ chịu ảnh hưởng của tiến trình này. Tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc rất cao và trình quốc tế hóa đồng NDT có thể sẽ làm cho nền kinh tế của chúng ta thêm phụ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc. Rõ ràng, ở thời điểm hiện tại, hàng hóa, dịch vụ của Trung Quốc đã có mặt ở tất cả ngõ ngách của Việt Nam. Trong khi đó, trên các trang mạng xã hội ở thời điểm hiện nay đã có hàng loạt những bài nói về những sản phẩm Trung Quốc độc hại thế nào, nguy hiểm thế nào đến sức khỏe của người tiêu dùng Việt Nam khi hàng hóa của Trung Quốc lưu thông trên thị trường Việt Nam. Vậy, nếu như theo dự báo của Ngân hàng HSBC thì đến năm 2030 Trung Quốc sẽ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, thì mức độ phụ thuộc vào kinh tế của Việt Nam vào nền kinh tế Trung Quốc sẽ như thế nào? Cần phải duy trì mối quan hệ tốt đẹp theo phương châm 16 chữ vàng “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” với Trung Quốc nhưng càng cần nhận thấy rõ bản chất thâm hiểm của Trung Quốc thông qua các hoạt động thương mại, tài chính và tiền tệ, chúng ta càng phải cảnh giác cao độ trước mọi động thái kinh tế của Trung Quốc. Và ngay từ trong tiềm thức, tư duy cho đến hành động, mỗi chúng ta hãy giương cao khẩu hiệu: “Người Việt Nam ưu tiên tiêu dùng hàng Việt Nam”.
                                                                                                                                    Ms.Nanu

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

Bản đồ của Trung Quốc xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam

Bản đồ của Trung Quốc xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam

(Dân trí) - Bản đồ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và “Quy hoạch phát triển sự nghiệp hải dương quốc gia 5 năm lần thứ 12” mà Trung Quốc phát hành và công bố là hoàn toàn vô giá trị - Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị
 
Ngày 24/4/2013, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc Trung Quốc chính thức phát hành Bản đồ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và công bố “Quy hoạch phát triển sự nghiệp hải dương quốc gia 5 năm lần thứ 12”, trong đó có những nội dung vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị nêu rõ:

“Việt Nam khẳng định chủ quyền không tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở Biển Đông theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
           
Việc Trung Quốc lưu hành bản đồ và công bố quy hoạch nêu trên đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, vi phạm luật pháp quốc tế, Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc; không phù hợp với tinh thần DOC, gây căng thẳng và phức tạp tình hình ở Biển Đông. Bản đồ và quy hoạch trên là hoàn toàn vô giá trị”.

THƯ GỬI NGUYỄN TRỌNG VĨNH



THƯ GỬI NGUYỄN TRỌNG VĨNH 

Trần Ái Quốc

Khi đọc bài viết của Nguyễn Trọng Vĩnh trên blog Bùi Văn Bồng, bài viết mang tên : “Thấy gì khi đọc kỹ Bản dự thảo Hiến Pháp sửa đổi. Những tưởng bài viết đóng góp được gì cho đất nước Việt Nam, đóng góp vào sức dân trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn, thì bài viết chỉ nhằm mục đích bôi nhọ, xuyên tạc những vấn đề liên quan đến quyền con người trong bản dự thảo Hiến Pháp sửa đổi.

Trong bài viết của Nguyễn Trọng Vĩnh có ghi: “ Điều 2 Chương I ghi “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”. Nhưng nhân dân không được làm và phúc quyết Hiến pháp là văn bản luật cơ bản và cao nhất liên quan đến quyền lợi của dân và chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của chính quyền. Điều 74, 75 chương V ghi “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến… làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp…” là phủ định quyền được làm và phúc quyết của dân”

Kính thưa ông Vĩnh, khi viết những vấn đề này ông phải tìm hiểu kỹ hơn về pháp luật Việt Nam, ông quên mất rằng nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, điều đó được thể hiện cụ thể thông quan quyền phổ thông đầu phiếu trong mỗi nhiệm kỳ bầu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Tại Điều 6 Hiến Pháp 1992 ghi rõ: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Tiếp đó, Tại Điều 7 quy định: “việc bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.  Từ những lá phiếu của người dân được bầu một cách dân chủ, công khai mà các cơ quan Đảng, cơ quan quyền lực Nhà nước được hình thành. Đó là những đại biểu trung thành nhất, đại diện cho quyền lợi của nhân dân, quyền lực nhân dân được đại diện bởi Quốc Hội, và khi thực hiện quyền lập hiến thì Quốc hội thực thi quyền lực đại diện cho nguyện vọng và ý chí của nhân dân. Như vậy làm gì có chuyện phủ định quyền được làm và phúc quyết của nhân dân. Ông nói vậy là chưa chính xác ông Vĩnh nhé.

Tiếp, ông nói Đảng Cộng sản Việt Nam làm trái tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện khi trích dẫn Điều 21 và Điều 70 của Hiến Pháp năm 1946. Ông nên nhớ, theo quan điểm Mác Lênin khi nhận xét bất cứ một vấn đề gì phải dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Bối cảnh đất nước Việt Nam ngày càng dân chủ, tiến tới công bằng xã hội, do vậy Hiến Pháp cũng cần thay đổi thường xuyên cho phù hợp với thực tiễn cách mạng. Ông lấy bối cảnh năm 1946 để so sánh với năm 2013 là một sự so sánh khập khiễng, vô nguyên tắc và phi khoa học. Bên cạnh đó, Hiến Pháp năm 1992 và Bản dự thảo Hiến Pháp sửa đổi đã thể hiện rõ quyền công dân được quy định tại Chương V của bản Hiến Pháp 1992 sửa đổi năm 2011. Việc thể hiện quyền lực của nhân dân thông qua Quốc hội và các đại biểu Quốc hội không phải là đi ngược lại chủ nghĩa Mác Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng đúng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều 97 bản Hiến Pháp 1992 quy định: “Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước…” Như vậy, khi đại biểu Quốc hội họp quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước thì cũng chính là nhân dân đang quyết định, vì họ quyết định dựa trên ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

Đồng ý là người dân Việt Nam cần đóng góp ý kiến của mình cho bản dự thảo Hiến Pháp nhằm góp phần xây dựng đất nước này giàu đẹp hơn. Nhưng xem ra vẫn có những kẻ suốt ngày chỉ biết xuyên tạc, bôi nhọ danh dự của đất nước, ngẫm nghĩ thật đáng cười chê./.

Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2013

Cờ Tổ quốc tung bay trên biển Hoàng Sa

(Dân trí) - Khi tàu Trung Quốc nã đạn vào tàu cá của ngư dân ta trên biển Hoàng Sa, khiến nóc ca bin bốc cháy dữ dội, thuyền trưởng Bùi Văn Phái đã lao lên quấn cờ Tổ quốc vào lòng với quyết tâm: "Thuyền cháy, nhưng quyết không để cờ cháy".

 
(Thuyền trưởng Bùi Văn Phải Thuyền cháy, nhưng không để cờ cháy)
(Thuyền trưởng Bùi Văn Phải" "Thuyền cháy, nhưng không để cờ cháy")
 
 
Cờ Tổ quốc tung bay trên biển Hoàng Sa
        Kính tặng tàu QNg 96382 và ngư dân trên biển đảo quê hương  

Đó là một ngày như mỗi ngày trên quần đảo Hoàng Sa
Nơi cha ông ta đã bao đời làm chủ
Nơi ngư dân ta từ ngàn xưa vẫn thường đánh cá
Nhưng buổi sáng nay, một buổi sáng không bình yên

Khi các anh kéo lên mẻ lưới cuối cùng
Bỗng lũ sài lang ầm ầm kéo tới
Cậy thế đông người, chúng hung hăng xua đuổi
Tàu các anh ra khỏi biển quê hương

Không khuất phục được các anh, chúng xả đạn điên cuồng
Lửa phần phật cháy trên khoang lái
Bùi Văn Phải lao lên, không một giây ngần ngại
Ôm chặt lá cờ Tổ quốc trong tay.

Chỉ một lát sau cờ Tổ quốc lại tung bay
Kiêu hãnh, hiên ngang trên biển trời Tổ quốc
Tàu dẫu cháy nhưng cờ không được cháy
Bởi lá cờ là Tổ quốc thiêng liêng.

Xin cám ơn các anh, những người con trung kiên
Cột mốc sống giữa đại dương hùng vĩ
Không chỉ là ngư dân, các anh là chiến sĩ
Canh giữ biển trời Tổ quốc phía tiền tiêu./

                                                       Bùi Hoàng Tám
                                                        Ngày 28/3/2013

Những hình ảnh về chủ quyền biển đảo được trưng bày trong ngày lễ Quốc Giỗ 10/3/Quý Tỵ

Ngày 19/4 (tức ngày 10/3 năm Quý Tỵ), tại Công viên Lịch sử - Văn hóa dân tộc (quận 9, TPHCM), sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch TP HCM đã tổ chức long trọng và trang nghiêm ngày Giỗ tổ Hùng Vương. Trong khuôn khổ lễ giỗ, lãnh đạo địa phương cùng hàng ngàn người dân và du khách gần xa đã dâng hương, dâng hoa, tổ chức tễ tế bày tỏ lòng thành kính và biết ơn đến các Vua Hùng.

Với ý thức tự tôn dân tộc và thể hiện ý chí bảo vệ, xây dựng tổ quốc của con cháu, ban tổ chức Lễ giỗ đã trưng bày 33 bia đá chủ quyền các đảo lớn nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Mỗi tấm bia khắc tên, khẳng định chủ quyền một hòn đảo với các thông tin về tọa độ vị trí địa lý. Ban tổ chức cũng triển lãm, giới thiệu 23 bức ảnh của 14 tác giả về vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.


Có 23 bức ảnh về vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc được triển lãm trong ngày Quốc giỗ
Có 23 bức ảnh về vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc được triển lãm trong ngày Quốc giỗ

33 tấm bia đá khẳng định chủ quyền các đảo lớn nhỏ cũng được trưng bày
33 tấm bia đá khẳng định chủ quyền các đảo lớn nhỏ cũng được trưng bày

Mỗi tấm bia khẳng định tên và tọa độ địa lý một hòn đảo
Mỗi tấm bia khẳng định tên và tọa độ địa lý một hòn đảo

Tác phẩm “Một góc đảo An Bang” thuộc quần đảo Trường Sa của tác giả Nguyễn Thanh Dũng
Tác phẩm “Một góc đảo An Bang” thuộc quần đảo Trường Sa của tác giả Nguyễn Thanh Dũng

 “Trường Sa hôm nay” - tác giả Lê Hùng
 “Trường Sa hôm nay” - tác giả Lê Hùng

 “Trường Sa hôm nay” - tác giả Lê Hùng
Cùng với việc dâng hương tưởng nhớ các Vua Hùng, triển lãm ảnh và bia đá chủ quyền biển đảo thể hiện tinh thần đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc của con dân Việt Nam
Giỗ Tổ Hùng Vương được sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch TP HCM tổ chức trong 2 ngày 18-19/4. Lễ giỗ diễn ra long trọng với các nghi thức lễ tế cổ truyền đồng thời mở hội võ thuật, đấu vật, trò chơi dân… gian nhằm thể hiện tinh thần thượng võ dân tộc, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Minh Hậu
(Báo dân trí)

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

NAM QUỐC SƠN HÀ: CHÂN LÝ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

“Nam Quốc Sơn Hà” 
- Chân lý chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam 
Lê Phước
 
Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam là một bản trường ca về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, người Việt Nam luôn nêu cao tinh thần bất khuất và bảo vệ bằng mọi giá chủ quyền lãnh thổ thiêng thiêng. Một trong những minh chứng hùng hồn nhất cho tinh thần đó là bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” được cho là của danh tướng Lý Thường Kiệt.
Thời điểm ra đời bài thơ
Đây là một bài thơ lịch sử phổ biến nhất ở Việt Nam, phổ biến vì nó thể hiện được chân lý toàn vẹn lãnh thổ bất di bất dịch của dân tộc Việt Nam, dù có nghiên cứu sử hay không, thì người Việt Nam ai mà không biết đến câu : «Sông núi nước nam vua nam ở ». Thế nhưng, đến hiện tại, bài thơ này còn nhiều điểm chưa thống nhất giữa các tài liệu về tác giả, thời điểm ra đời và một số câu chữ trong bài thơ.

Về thời điểm ra đời bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà”, hiện tại có hai thuyết khác nhau về thời điểm xuất hiện bài thơ, mà có lẽ là dựa chủ yếu vào hai tài liệu sau đây:

Sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp thời Trần phần “Truyện hai vị thần Long Nhãn, Như Nguyệt” chép:

“Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đem binh sang xâm lược nam phương. Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lượng kéo quân tới sông Đồ Lỗ cự địch. Hai bên đối lũy cùng cầm cự với nhau. Đại Hành mộng thấy hai thần nhân hiện trên sông nói rằng: “Anh em thần, một tên là Hống, một tên là Hát, xưa kia theo Triệu Việt Vương, cầm quân chinh phạt nghịch tặc mà lấy được thiên hạ. Về sau Triệu Việt Vương mất nước, Lý Nam Đế triệu hai anh em thần. Bọn thần vì nghĩa không theo được nên uống thuốc độc mà tự tử. Thượng đế thương hai anh em thần có công lại trung nghĩa một lòng mới phong làm quan tướng trong hàng các thần linh, thống lĩnh quỉ binh. Nay quân Tống phạm cõi, làm khổ sinh linh nước ta, cho nên anh em thần đến yết kiến, xin nguyện cùng nhà vua đánh giặc cứu sinh linh […] Đêm sau thấy một người dẫn đoàn quỉ áo trắng từ phía nam sông Bình Giang tới, một người dẫn bọn quỉ áo đỏ từ phía bắc sông như Nguyệt lại, cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười, trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình trên không, lớn tiếng ngâm rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.
Như hà Bắc Lỗ lai xâm phạm
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau mà chạy, mạnh ai nấy chạy thoát thân, bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Quân Tống vì thế đại bại mà về”.

Trong khi đó, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê thì ghi: “Nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu Thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1 nghìn người. Quách Quỳ lui quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta (người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào theo dọc sông để cố thủ. Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Sau đó quả nhiên như thế. (Hai anh em Trương tướng quân, anh tên là Khiếu, em tên là Hát, đều là tướng giỏi của Triệt Việt Vương. [Triệu] Việt Vương bị [Hậu] Lý Nam Đế đánh bại mà mất nước. Nam Đế gọi cho làm quan, hai người đều nói: "Tôi trung không thờ kẻ làm vua đã giết hại chủ mình". Rồi ẩn mình trốn ở núi Phù Long, Nam Đế gọi mấy lần không chịu ra, mới hạ lệnh ai chém được thủ cấp hai người thì thưởng nghìn vàng)”.

Như vậy, một thuyết cho rằng bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” xuất hiện khi vua Lê Đại Hành mang quân cự Tống năm 981, còn theo thuyết còn lại thì bài thơ ra đời khi Lý Thường Kiệt phụng mệnh vua Lý Nhân Tông mang quân chống giặc Tống xâm lăng hồi năm 1076-1077. Thế nhưng, khi đề cập đến bài thơ này đa số sách sử đều cho là gắn liền với trận đánh trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt năm 1076-1077. Như sách Việt Sử Tiêu Án của Ngọ Phong Ngô Thời Sĩ hay Việt Nam Sử Lược của Lệ Thần Trần Trọng Kim đều cho rằng bài thơ xuất hiện vào thời Lý Thường Kiệt.

Dù bài thơ xuất hiện dưới thời Lê hay thời Lý thì đến hiện tại chưa thấy tài liệu nào ghi rằng chính vua Lê Đại Hành hay tướng Lý Thường Kiệt sáng tác bài thơ hoặc đích thân họ đã ngâm bài thơ. Trong cả hai trường hợp các sách đều nói rằng là do ‘”thần nhân” ngâm lên để làm khiếp sợ giặc Tống. Nói về “thần nhân” ngâm bài thơ, thì các sách cũng thống nhất rằng đó là hai thần Trương Hống và Trương Hát. Mà chuyện về hai vị thần này thì còn nhiều điều mờ mịt dù rằng đền thờ hai vị là có thật.

Một bài thơ chống ngoại xâm
Dù là xuất hiện ở thời Lê Đại Hành hay thời Lý Thường Kiệt, thì bối cảnh lịch sử cũng là: đánh đuổi giặc ngoại xâm mà cụ thể ở đây là giặc Tống. Điều đáng chú ý đó là các sách đều ghi nhận là do thần nhân đọc hoặc được vang lên từ trong miếu thần nhân, và mục đích đều là: “đánh đuổi giặc ngoại xâm”, và kết quả đều là: thắng lợi.

Các sách có đề cập đến câu chuyện này đều ghi nhận, khi nghe bài thơ, quân Tống kinh hãi và chạy tán loạn. Vì sao lại sợ hãi đến thế? Trước tiên là vì bài thơ đến từ các thần nhân, trong chuyện Lê Đại Hành thì các thần đích thân ngâm, còn trong chuyện Lý Thường Kiệt thì bài thơ được vang lên từ trong miếu thần. Mà dẫu cho đó là mưu kế Lý Thường Kiệt, thì Lý Thường Kiệt cũng muốn nhờ đến oai thần mà làm khiếp sợ quân xâm lược và Lý Thường Kiệt đã làm được, oai linh của thần nhân đất Việt đã làm khiếp sợ quân thù.

Trong chuyện An Dương Vương mất nước vì để mất nỏ lẩy nỏ thần, sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như sau: “Chuyện rùa vàng đáng tin chăng? Chuyện thần giáng đất Sần, chuyện đá biết nói cũng có thể là có. Vì việc làm của thần là dựa theo người, thác vào vật mà nói năng. Nước sắp thịnh, thần minh giáng để xem đứa hóa; nước sắp mất, thần cũng giáng để xét tội ác. Cho nên có khi thần giáng mà hưng, cũng có khi thần giáng mà vong. An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè đặt sức dân, cho nên thần thác vào rùa vàng để răn bảo, chẳng phải là vì lời oán trách động dân mà thành ra như thế ư?”. Nói như thế thì thần ở đây chính là linh khí của núi sông, là lòng dân vậy, thần làm theo ý muôn dân, nếu dân hộ thì thần hộ. Oai thần ở đây chính là oai linh của núi sông Việt Nam. Giặc Tống kinh hãi oai thần tức là kinh hãi cái chí khí bất khuất của dân tộc Việt Nam vậy.

Vì sao quân Tống phải kinh hãi oai thần? Vì quân Tống đã làm trái đạo lý, mà trái đạo lý tức làm làm thần và người cùng oán vậy. Điều trái đạo lý của quân Tống đó là đã xâm phạm đến chủ quyền thiêng liêng của một quốc gia.

Còn nhiều dị bản về nội dung bài thơ
Trước hết cần khẳng định rằng bài thơ này không có tên, mà cái tên “Nam Quốc Sơn Hà” là do đời sau mượn bốn chữ ở câu thơ đầu và cũng là tinh thần của cả bài thơ để đặt tên cho bài thơ.

Còn về nội dung của bài thơ, thì đến hiện tại cũng có nhiều dị bản. Đến như hai tài liệu chính yếu liên quan đến câu chuyện nêu trên cũng có chỗ khác nhau.

Lĩnh Nam Chích Quái ghi:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.
Như hà Bắc Lỗ lại xâm phạm
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.
Dịch nghĩa :

Đất nước Nam do Hoàng Đế nước Nam ngự trị
Điều đó đã được ghi rõ trong sách trời.
Nếu như giặc phương Bắc xâm phạm cõi bờ
Thì lưỡi gươm sắt sẽ chém tan như là chẻ tre vậy.
Còn Đại Việt Sử Ký toàn thư nhà hậu Lê chép:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Dịch nghĩa :

Đất nước Nam do Hoàng Đế nước Nam ngự trị
Điều hiển nhiên đó đã được ghi rõ trong sách trời.
Nếu như giặc phương Bắc xâm phạm cõi bờ
Thì sẽ chuốc lấy bại vong.
Bản lưu hành rộng rãi trong hiện tại mà Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim cũng ghi :

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Ta thấy có sự khác nhau là “phân định” và “định phận”. Nếu dùng chữ “định phận” thì có vẻ thụ động hơn, tức được trời đặt để. Trong khi đó, chữ “phân định” thì có tinh thần tự chủ hơn, tức cũng do trời sắp đặt, nhưng mà sắp đặt theo chân lý, theo điều hiển nhiên. Và cũng đúng thôi, xã hội Việt Nam từ thế kỷ 15 bắt đầu chịu sự thống trị của Nho Giáo, mà theo Nho Giáo thì trời là "chân thiện mỹ", là đại diện cho sự hoàn hảo, trời luôn làm điều tốt, điều hợp đạo lý cho con người. Hơn nữa, Nho sĩ ai mà không biết câu “nhân định thắng thiên”, tức nếu người quyết tâm cao thì cũng làm lay chuyển được ý trời. Mộc bản triều Nguyễn, di sản đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản tư liệu của nhân loại và được đưa vào chương trình "Ký ức thế giới” vào ngày 30-7-2009, cũng chép là “phân định”.

Như vậy, dùng chữ “phân định” thì có vẻ hào hùng hơn và hợp lý hơn trong bối cảnh lịch sử là làm khiến sợ quân thù và khẳng định chủ quyền quốc gia như tinh thần mà bài thơ muốn truyền tải.

Trong các bản trên, ta thấy có sự khác biệt giữa “Bắc Lỗ”- giặc phương Bắc và “nghịch lỗ” - giặc nói chung. Như vậy, từ một đối tượng ngoại xâm cụ thể là giặc phương Bắc đã đi đến giặc ngoại xâm nói chung. Điều đó cho thấy lập trường rất rõ ràng của người Việt Nam, là không chỉ giặc phương Bắc, mà bất kỳ kẻ ngoại xâm nào cũng không được phép và không thể xâm lược Việt Nam, nếu xâm lược thì sẽ chuốc lấy bại vong.

Bàn về cách dịch bài thơ, sách giáo khoa ở Việt Nam và nhiều tài liệu khác điều chép bản dịch sau đây :

Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc xâm phạm
Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời.
Bản dịch này dùng từ “vua” trong khi bản gốc là “đế”. Bản chữ Hán của bài thơ là :

南國山河
南 國 山 河 南 帝 居
截 然 定 分 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 取 敗 虛
Ta thấy bản gốc là chữ 帝- Hoàng đế, còn vua thì phải là 王 – vương. Hoàng đế là ngôi cao nhất, ngôi có quyền phong cho nhiều người làm Vua, nhưng Vua thì không bao giờ có quyền phong cho ai làm Hoàng đế. Các vua của ta xưa nay để sánh ngang với triều đình phương Bắc đều xưng là hoàng đế. Tuy vậy, Nho Giáo của ta đề cao thuyết “trọng vương khinh bá”, tức chuộng việc cai trị tốt muôn dân trong nước chứ không có dã tâm đi hiếp đáp nước người, nên dân ta có vẻ đồng nhất hoàng đế và vua, như hay gọi vua Đinh Tiên Hoàng, vua Minh Mạng, hay vua Khang Hy, vua Càn Long… trong khi các vị này đều xưng là hoàng đế. Thế nhưng, nếu ở đây mà dịch Đế là Vua thì chưa thể hiện hết niềm tự tôn và tự tin rất mãnh liệt của tổ tiên ta.

Một bài thơ khẳng định chủ quyền quốc gia
Như vậy, dù còn nhiều tranh cãi về thời điểm ra đời, về tác giả và về nội dung bài thơ, nhưng có một thực tế lịch sử đó là bài thơ đã tồn tại từ bấy lâu nay trong sử sách chính thống và trong dân gian, đó là dù Lê Đại Hành hay Lý Thường Kiệt thì hai vị này cũng đã thật sự đánh bại giặc Tống. Và điều quan trọng hơn hết không phải là lạc vào trong các chi tiết huyền sử, mà cần hiểu được bài học mà tổ tiên ta muốn gửi gắm cho thế hệ sau.

Liên quan đến chủ đề này, giáo sư sử học Trịnh Văn Thảo thuộc Đại học Aix-Marseille Cộng Hòa Pháp nhận định:

«Trước tiên tôi xin nhắc lại một bản dịch bài thơ mà tạm gọi là của Lý Thường Kiệt, bản dịch của cụ Nguyễn Đổng Chi :

Nước Nam Việt có vua Nam Việt,
Trên sách trời chia biệt rành rành.
Cớ sao giặc dám hoành hành?
Rồi đây bay sẽ tan tành cho coi.
Người ta không biết bài thơ này có phải của danh tướng Lý Thường Kiệt hay không, nhưng chúng ta cần phân biệt huyền sử với khoa học lịch sử. Trong bối cảnh tranh chấp quyết liệt giữa người Việt dưới thời Lý và người Trung Quốc dưới thời Tống, thì ta có thể xem bài thơ này là bản tuyên ngôn độc lập tự chủ của người dân Việt Nam. Theo ý tôi, cái ý nghĩa lịch sử nó sâu sắc hơn là sự kiện lịch sử.

Xem lại bài thơ này ta thấy có ba điểm chính. Điểm đầu tiên là nguyên tắc độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam được phát biểu một cách rõ rệt. Thứ hai là nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam. Và thứ ba là nguyên tắc về bổn phận thiêng liêng của người Việt là phải bảo vệ tổ quốc của họ. Đó là ba ý chính để có thể suy luận rằng đây có thể là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của quốc gia Việt Nam.

Còn trong bối cảnh thời sự ngoại giao của dân tộc Việt Nam hiện nay và những vấn đề ta phải đương đầu, tôi nghĩ thế này, qua bài thơ ta thấy một chân lý lịch sử rõ rệt là : ai đi ngược lại ba nguyên tắc đó sẽ đi đến thất bại. Nhất là trong bối cảnh quốc tế hiện giờ, ai đi ngược lại chính nghĩa, dựa vào võ lực để xâm lược một xứ nhỏ, đều sẽ thất bại trước lịch sử ».

Tóm lại, bài thơ Nam Quốc Sơn Hà là một lời khẳng định hùng hồn cho một chân lý của tạo hóa là : đất nước Việt Nam là do người Việt Nam làm chủ, đó là chủ quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, bất chấp đó là ai, nếu đi ngược lại chân lý của tạo hóa là xâm lược lãnh thổ Việt Nam (hay của bất kỳ một quốc gia nào) thì chắc chắn sẽ chuốc lấy bại vong. Đây cũng chính là tinh thần bất diệt của dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, đã được thực tế lịch sử minh chứng suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Blog Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư xin trân trọng đăng lại